Thứ Năm, 31 tháng 3, 2011

Kẽm (Zn)


Thực phẩm có hàm lượng kẽm cao

Trong dinh dưỡng kẽm hoạt động như một cảnh sát viên điều hành và theo dõi sự vận chuyển của thể dịch trong cơ thể, duy trì hoạt động của các enzym và hoạt động của tế bào.

a. Tính chất
Kẽm là khoáng vi lượng cần thiết cho quá trình tổng hợp protein cơ thể, điều khiển sự co giãn cơ, tham gia tạo hocmon insulin để ổn định đường huyết và duy trì sự cân bằng toan kiềm.

b. Công dụng dinh dưỡng
Những nghiên cứu gần đây cho thấy kẽm có vai trò trong hoạt động của não bộ, trong tổng hợp AND - cơ sở di truyền của tế bào và trong hoạt động tình dục thông qua tuyến tiền liệt (BS. Hồ Diễm Châu và DS. Phan Ðức Bình).

c. Nguồn và lượng cung cấp
Nhu cầu kẽm hàng ngày cho người lớn là 15mg. Người có thai, cho con bú và vận động viên cần cao hơn.

Kẽm có trong ngũ cốc nguyên hột, trong nghêu, sò, ốc, hến, tôm, cua, ...

Trong thực vật kẽm tập trung ở phần mềm và bộ phận sinh dục, nhiều nhất là trong nhị đực, phấn hoa, mầm của hạt.

Kẽm là kim loại chỉ hấp thụ dưới dạng ion.


Trích “Vệ sinh dinh dưỡng và các loại thuốc đặc hiệu cho vận động viên” NXB THỂ DỤC THỂ THAO năm 1999.

Sắt (Fe)


Gan lợn là một trong những thực phẩm giàu sắt.

Sắt là một loại nguyên tố dinh dưỡng nghèo thiếu của thế giới hiện nay. Tỉ lệ vận động viên phát sinh thiếu sắt tương đối cao và nó ảnh hưởng khá nhiều đến sức khoẻ và năng lực vận động. Do vậy sắt rất quan trọng đối với cơ thể.

a. Công dụng dinh dưỡng
Ion sắt là thành phần quan trọng nhất của nhóm phụ xitocrom, có trong các phân tử hemoglobin và myoglobin có khả năng liên kết với oxy và các khí khác, tức là chính chúng tham gia vào quá trình vận chuyển các khí đó.

Thiếu sắt sẽ dẫn tới rối loạn quá trình tạo máu.

b. Lượng và nguồn cung cấp
Lượng sắt được cung cấp phụ thuộc vào hiệu suất hấp thụ thức ăn. Hiệu suất hấp thụ sắt tương đối thấp. Trong thức ăn thực vật, hiệu suất hấp thụ dưới 10%. Ví dụ, gạo 1%, lúa mạch 5%, đậu nành 7%: Sắt trong thức ăn nguồn động vật có ở dạng huyết sắc tố, hiệu suất hấp thụ cao; trong thịt nạc, các cơ quan nội tạng (các loại lòng) hiệu suất hấp thụ tới 22%, cá 11%, trứng 3%.

Sắt trong khẩu phần có hai dạng: Hem và không Hem.

Dạng Hem là sắt trong thức ăn nguồn động vật (thịt, cá). Người bình thường có thể hấp thụ từ 20-30% dạng sắt Hem, trong khi người thiếu sắt có thể hấp thu tới 40-50%.

Dạng không Hem chiếm khoảng 90% sắt trong khẩu phần có nguồn gốc thực vật (rau, đậu, trái cây). Sắt dạng không Hem được hấp thụ kém hơn nhiều, chỉ khoảng 2-20% do ảnh hưởng của các yếu tố cản trở hấp thụ sắt trong khẩu phần. Ví dụ, chỉ có 3-60% sắt trong ngũ cốc được hấp thụ, vì các chất ức chế hấp thụ sắt trong khẩu phần như phytat có trong ngũ cốc, tanin và polyphenol có trong trà. ở Việt Nam 60-80% sắt là nguồn gốc sắt không Hem (TS. Phạm Văn Tất).

Nhu cầu sắt của người trưởng thành nam là 15mg/ngày, nữ là 18mg/ngày; vận động viên cao hơn - 25mg/ngày.

Vitamin C và protit có tác dụng xúc tiến quá trình hấp thụ sắt. Chất tanin trong lá trà gây cản trở hấp thụ sắt; thức ăn nhiều lipit cũng ngăn cản hấp thụ sắt. . .

Khi cần thiết cũng có thể cung cấp sắt bằng cách cho thức ăn cường hoá sắt, nhưng phải thận trọng, bởi vì nhiều sắt quá cũng có hại cho cơ thế.


Trích “Vệ sinh dinh dưỡng và các loại thuốc đặc hiệu cho vận động viên” NXB THỂ DỤC THỂ THAO năm 1999.

Ma giê (Mg)


Quả bơ chứa nhiều magiê.

a. Công dụng dinh dưỡng
Nhu cầu magiê của cơ thể rất ít, do vậy ít khi bị thiếu, nhưng nó lại có ý nghĩa đặc biệt đối với vận động viên.
Magiê duy trì tính hưng phấn bình thường của hệ thần kinh-cơ. Khi hàm lượng magiê trong huyết tương giảm dễ xuất hiện mệt mỏi. Khi tính hưng phấn thần kinh-cơ ở mức độ cao dễ bị chuột rút, trẻ em dễ bị co giật.
Ion magiê hoạt hoá nhiều men tham gia trong chuỗi hô hấp tế bào.
Magiê có vai trò quan trọng trong quá trình tổng hợp protit, tức là nó có khả năng liên kết một số riboxom thành polyxom.
Ma giê có khả năng bảo vệ tim, phòng ngừa colesterol tăng gây xơ cứng động mạch.

b. Nguồn và lượng cung cấp
Ở người lớn khi cần cung cấp 1000KCAL cần có 120mg ma giê. Nhu cầu hàng ngày của đàn ông là 350mg, đàn bà: 300mg. Ma giê mất ra ngoài theo mồ hôi và nước tiểu. Do vậy lúc đó nhu cầu ma giê của cơ thể tăng lên. Ma giê có trong các thức ăn thực vật như các loại gạo, đậu, bắp cải,...


Trích “Vệ sinh dinh dưỡng và các loại thuốc đặc hiệu cho vận động viên” NXB THỂ DỤC THỂ THAO năm 1999.

Natri và Clo (Na và Cl)


Muối 



a. Công dụng dinh dưỡng
Natri là ion dương (Na+),chủ yếu ở dịch ngoài tế bào; clo là ion âm (Cl-). Chúng có tác dụng thẩm thấu và cân bằng toan kiềm.
 Natri nâng cao tính hưng phấn của tế bào thần kinh. Thiếu natri dễ bị yếu, đễ mệt mỏi, kém ăn, tim đập nhanh.

Clo là thành phần chủ yếu của dịch dạ dày, có tác đụng kích thích tiêu hoá. Ion cao có tác dụng hoạt loá men amylaza, là men thúc đẩy quá trình tiêu hoá tinh bột.

Muối clorua natri - Nacl - gây cảm giác vị giác.

b. Nguồn và lượng cung cấp
Hàm lượng natri có trong thực phẩm vượt nhu cầu hàng ngày của cơ thể. Nói chung người lớn cần khoảng 10g/ngày. Khi mồ hôi ra nhiều do vận động hoặc trời nóng bức, cơ thể mất nhiều muối Nacl, cần phải bù đắp.

Nồng độ 0,3% muối trong nước uống là thích hợp. Mất lít mồ hôi cần bù 3g NaCl. Mồ hôi ra nhiều cần bù cả nước và natri, nếu không có thể sẽ bị tụt huyết áp.


Trích “Vệ sinh dinh dưỡng và các loại thuốc đặc hiệu cho vận động viên” NXB THỂ DỤC THỂ THAO năm 1999.

Kali (K)




a. Công dụng dinh dưỡng
Kali điều hoà sự cân bằng nước trong và ngoài tế bào để duy trì quá trình thẩm thấu. 98% kali trong dịch tế bào ở dạng ion.

Kali còn tham gia vào quá trình trao đổi năng lượng. Sự tích luỹ glycogen xảy ra đồng thời với tích luỹ kali và photphat. 1gam glycogen được tạo thành cần 0,15mg kali ở dạng ion.

Kali có liên quan đến việc tạo thành protit trong tế bào. lgam protit tạo thành cần có 0,45mg kali. Kali xúc tiến tạo thành myoglobin. Thiếu kali sẽ ảnh hưởng đến sự sử dụng protit của cơ thể.

Kali có vai trò trong việc duy trì phản ứng thần kính, cơ và bảo đảm nhịp tim bình thường. Thiếu kali sự chuyển hưng phấn thần kinh sẽ yếu, phản xạ chậm. Nồng độ kali trong máu thay đổi sẽ làm thay đổi nhịp tim, có thể gây loạn nhịp.

b. Lượng và nguồn cung cấp
Kali có nhiều trong thức ăn, do vậy cơ thể ít khi bị thiếu và lượng cung cấp không yêu cầu nghiêm ngặt. Người trưởng thành mỗi ngày cần 2g, trẻ em - 0,05g/kg cân nặng. Vận động viên mất nhiều kali theo mồ hôi. Sau vận động, để phục hồi lượng protit và glycogen cơ thể cần có kali. Do vậy kali cần cung cấp nhiều hơn: 4-6g/ngày.


Trích “Vệ sinh dinh dưỡng và các loại thuốc đặc hiệu cho vận động viên” NXB THỂ DỤC THỂ THAO năm 1999.

Photpho (P)








  


Phốt pho: Nguyên tố của sự sống


a. Công dụng dinh dưỡng
Photpho tham gia cấu tạo xương và răng, photpho và canxi kết hợp lại thành photphocanxi là thành phần chính của xương và răng.

Photpho tham gia vào quá trình trao đổi năng lượng. Nó là thành phần quan trọng của nhiều loại men, có trong thành phần cấu tạo hoá học của các chất ATP, CP - là những chất cao năng lượng cần thiết cho hoạt động cơ bắp. Năng lượng tiêu hao càng nhiều thì photpho cũng tiêu hao càng lớn.

Hợp chất photpholipit là thành phần quan trọng của tổ chức thần kinh và mô tế bào.

Photpho còn có vai trò trong việc duy trì cân bằng kiềm toan của máu.

Photpho tồn tại dưới dạng photpho axit và kiềm. Photpho kiềm trong máu có vai trò là hệ thống đệm của máu.

b. Lượng và nguồn cung cấp
Người ta chưa xác định wợc lượng photpho cần thiết phải cung cấp cho cơ thể, vì nó có nhiều trong các loại thực phẩm động vật và thực vật, chỉ cần ăn đầy đủ các loại thức ăn là có đủ lượng photpho cần thiết cho cơ thể. Nhu cầu photpho một ngày đêm của một người là 1,6g. Ðối với vận' động viên, đặc biệt là vận động viên sức bền, sức mạnh thì cần 2,0-2,5g, thậm chí có thể tăng tới 3,0-4,5g.


Trích “Vệ sinh dinh dưỡng và các loại thuốc đặc hiệu cho vận động viên” NXB THỂ DỤC THỂ THAO năm 1999.

ca


ở người trưởng thành hàm lượng canxi là 200g, trong đó xương và răng chiếm 95%, còn lại nằm trong dịch thể và tổ chức xốp.

a. Công dụng dinh dưỡng
Canxi tham gia cấu tạo xương và răng. Nếu thiếu canxi trẻ em bị bệnh còi xương, người lớn và người già bị bệnh loãng xương và mềm xương.
Canxi duy trì tính hưng phấn của hệ thần kinh-cơ và điều tiết hoạt động của hệ tim mạch. Thiếu canxi sự kích thích thần kinh-cơ tăng cao, cơ dễ bị co cứng.
Canxi tham gia vào quá trình đông máu, có tác dụng kích hoạt men đông máu.

b. Lượng và nguồn cung cấp
Người lớn mỗi ngày cần 0,8g canxi; trẻ em, thiếu niên, người già và phụ nữ có thai cần nhiều hơn. Khi mồ hôi ra nhiều, như vận động viên cần tăng lượng canxi tới 1,5g/ngày.
Canxi có nhiều trong tôm, rong biển, các loại đậu, rau có màu xanh, ...
Hấp thụ và sử' đụng canxi trong thực phẩm chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố nh nồng độ axit trong thực phẩm, vitamin D và protit có tác đụng xúc tiến sự hấp thụ và sử đụng canxi.



Trích “Vệ sinh dinh dưỡng và các loại thuốc đặc hiệu cho vận động viên” NXB THỂ DỤC THỂ THAO năm 1999.

CÁC CHẤT KHOÁNG VÀ NƯỚC

Trong cơ thể có chứa nhiều muối khoáng: canxi, na tri, photpho, kali, cao, và các chất vi lượng: sắt, đồng, coban, nhôm,... Chúng chiếm 3% trọng lượng cơ thể và ở dưới dạng hợp chất hữu cơ, muối hoặc ion.

Các chất khoáng có vai trò đa dạng và quan trọng trong cơ thể. Chúng là thành phần cấu tạo của một số tổ chức tế bào, chúng quyết định áp suất thẩm thấu của các dịch, hoạt tính của các men, tham gia vào quá trình co cơ phản ứng của nội môi. Mức độ hưng phấn của tế bào cũng như quá trình phát sinh điện thế trong các tổ chức đều phụ thuộc vào nồng độ của các chất khoáng khác nhau. Vì vậy có thể nói, các chất khoáng có ý nghĩa quyết định đối với các quá trình sống cơ bản của cơ thể.

Trong quá trình trao đổi chất cơ thể phải thải ra ngoài một lượng muối khoáng đáng kể, đặc biệt là khi vận động mồ hôi tiết ra nhiều, chất khoáng ra theo, nhất là natri và kali. Do vậy cần phải bổ sung qua thức ăn và thức uống.

Trong thực phẩm các muối khoáng cần thiết đều có đầy đủ (xem Phụ lục) Sau đây là một số muối khoáng cần thiết.

Vitamin C


Vitamin C (acid ascorbic)


a. Tính chất
Vitamin C là chất không ổn định, dễ bị phân huỷ trong môi trường kiềm, nhiệt độ và ánh sáng, rất dễ bị oxy hoá, kháng các kim loại như đồng, sắt. Khi nấu nướng vitamin C bị phân huỷ nhanh. Nó chỉ ổn định trong dung dịch keo.

b. Công đụng dinh dưỡng
Xúc tác cho các phản ứng oxy hoá sinh học. Vitamin C có hoạt tính rất mạnh, có khả năng chịu sự oxy hoá thuận nghịch, do đó cho phép nó tham gia vào phản ứng oxy hoá-khử trong vai trò của chất chuyển hydro bổ sung. Vitamin C thúc đẩy quá trình trao đổi chất, tăng cường cung cấp oxy cho não, do vậy nó gộp phần làm giảm mệt mỏi khi vận động.

Vitamin C tham gia cấu tạo tổ chức tế bào, giữ gìn sự hoàn chỉnh tế bào gan chất, tổ chức mô, xương, răng, bảo đảm sự hoạt động bình thường của mạch máu, thúc đẩy quá trình lành của các xương bị gẫy. Thiếu vitamin C sự tổng hợp glycogen trở nên khó khăn, sinh bệnh chảy máu, dế xuất huyết, răng và xương phát triển không bình thường, quá trình sinh trưởng phát dục kém.

Vitamin C thúc đẩy sự sinh kháng thể, tăng cường năng lực thực bào của bạch cầu, ức chế độc tính của vi khuẩn; do vậy vitamin C làm tăng khả năng miễn dịch của cơ thể.

Vitamin C giúp cơ thể hấp thụ sắt trong thức ăn, tăng cường chức năng tạo máu.

Vitamin C ảnh hưởng đến tình trạng chuyển hoá protit tại cơ, tham gia vào quá trình tạo protit dạng sợi của mô liên kết (collagen), tạo hocmon vỏ thượng thận, điều tiết trao đổi một số axit min, điều hoà hoạt tính một số men. Do vậy vitamin C có khả năng nâng cao năng lực thích ứng với điều kiện thiếu oxy và nóng hoặc lạnh.

Vitamin C còn có tác dụng giải độc, chống phù thũng.

Một tác dụng quan trọng nữa của vitamin C là ngăn ngừa xơ cứng động mạch. Vitamin C có thể thúc đẩy việc thải colesterol ra khỏi cơ thể, phòng ngừa nó đóng tích lại ở thành mạch máu. Thực nghiệm còn chứng minh được là vitamin C có tác dụng tăng cường phân giải CP và tổng hợp glycogen trong cơ, tiêu trừ axit lactic. Do vậy vitamin C có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong hoạt động thể thao.

c. Lượng và nguồn cung cấp.
Nói chung người trưởng thành cần 60mg/ngày. Một số nước khuyến nghị cần 30mg vitamin C cho 1000KCAL năng lượng sau khi bị chấn thương. Làm việc trong điều kiệu nhiệt độ môi trường cao, thiếu oxy, khí hậu lạnh thì nhu cầu vitamin C tăng lên.

Vận động viên thể thao cần 100-150mg vitamin C mỗi ngày. Vitamin C có trong nhiều thực phẩm, phân bố khá rộng, có nhiều trong các loại hoa quả rau tươi: khoai tây, bắp cải, rau xanh, chanh, me, ớt, táo, lê, ... Các quảưmàu đỏ có hàm lượng vitamin C cao. . .

Vitamin C là chất không bền vững, vì thế hàm lượng của nó trong thực phẩm cất giữ lâu ngày giảm đi nhiều. Vitamin C dễ bị phân huỷ khi đun nóng trong quá trình chế biến thức ăn, đặc biệt khi đun nấu trong dụng cụ làm bằng kim loại nặng, nh đồng, sắt; do vậy cần giữ gìn tinh khiết các loại nước hoa quả, rau xanh; tốt nhất nên ăn các loại rau sống.


Trích “Vệ sinh dinh dưỡng và các loại thuốc đặc hiệu cho vận động viên” NXB THỂ DỤC THỂ THAO năm 1999.

vitamin PP(Niacin)


                                                                                                vitamin PP(Niacin)



a. Tính chất
Vitamin PP tương đối ổn định, chịu được nhiệt và ánh sáng, không dễ bị phân huỷ, khi đun nấu ít bị ảnh hưởng.

b. Công dụng dinh đưỡng
Vitamin PP tham gia vào nhóm hoạt tính của nhiều men trong chuỗi hô hấp, điển hình là NAD và NADP. Các coenzym này tham gia vào quá trình oxy hoá yếm khí cơ chất, vào quá trình sinh tổng hợp. Thiếu vitamin PP các quá trình oxy hoá sinh học và việc tạo thành hàng loạt chất được tổng hợp trong cơ thể sẽ bị phá vỡ. Thiếu PP còn gây ra các bệnh viêm thần kinh, viêm ruột, viêm da, triệu chứng vô lực toàn thân, mắt mờ, cảm giác kém, tiêu hoá không tốt.

Vitamin PP còn tham gia vào việc làm mở rộng mạch máu, cân bằng colesterrol. Trong lâm sàng người ta sử dụng PP để trị bệnh của vòng tuần hoàn máu, bệnh cao huyết áp do colesterol, thiếu máu tuần hoàn. Nhưng khi uống quá nhiều vitamin PP sẽ có hại, có thể gây viêm đường tiêu hoá.

c. Lượng và nguồn cung cấp
Nhu cầu cung cấp vitamin PP tỉ lệ thuận với năng lượng cần giải phóng. Người lớn cần 5mg PP cho 1000KCAL, tuổi nhi đồng:6mg. Nhu cầu của người lớn là 12-20mg/ngày. Những người hoạt động trong điều kiện thiếu oxy ví dụ nh leo núi, lái máy bay, thợ lặn hay vận động viên thì cần PP nhiều hơn.

vitamin PP có trong nhiều loại thức ăn, nhưng hàm lượng không cao, có nhiều nhất trong gan động vật, lạc, đậu nành, thịt nạc.



Trích “Vệ sinh dinh dưỡng và các loại thuốc đặc hiệu cho vận động viên” NXB THỂ DỤC THỂ THAO năm 1999.

Vitamin B2 (Riboflavin)

Vitamin B2 (Riboflavin)




a.Tính chất
Vitamin B2 là chất chịu nhiệt tốt, ổn định trong môi trường axit và oxy hoá, nhưng dễ bị phân huỷ dưới ánh nắng mặt trời.

b. Công dụng dinh dưỡng
Vitamin B2 là một chất quan trọng không thể thiếu được trong quá trình oxy hoá sinh học. Nó bảo đảm cho sự trao đổi chất tiến hành bình thường, kích thích tăng trưởng, bảo vệ và hoàn chỉnh biểu bì và mô tế bào. Thiếu vitamin B2 gây khó khăn cho quá trình trao đổi chất, có thể dẫn đến các bệnh viêm lợi, xung huyết ở miệng, giảm thị lực và một số bệnh về da khác. vitamin B2 tham gia vào quá trình tái tạo protit trong cơ thể, thiếu nó hàm lượng protit trong gan và trong máu giảm, sự hợp thành. các protit trong cơ giảm; do vậy vitamin B2 có ý nghĩa đặc biệt đối với sự phát triển cơ bắp.

c Lượng và nguồn cung cấp.
Lượng B2 được cung cấp tỉ lệ thuận với sự trao đổi năng lượng trong cơ thể. Theo nghiên cứu của các nhà khoa học thể dục thể thao Trung Quốc thì cứ tiêu hao 1000KCAL phải cần O,5mg vitamin B2. Nhu cầu của người lớn là 1,2-2,0mg/ngày. Cũng có tác giả cho rằng B2 có liên quan với lượng protit đưa vào cơ thể, cứ 10mg protit vào cơ thể thì cần có 0,025mg B2 và khi đó sức mạnh và sức bền của vận động viên được nâng cao.


Trích “Vệ sinh dinh dưỡng và các loại thuốc đặc hiệu cho vận động viên” NXB THỂ DỤC THỂ THAO năm 1999.

Vitamin B1



a. Tính chất
Vitamin Bl dễ bị phân huỷ, nhưng ổn định đối với axit. Nhiệt độ có ảnh hưởng không lớn, nhưng dễ bị phá huỷ nơi cao áp.

b. Công dụng dinh dưỡng
Vitamin Bl bổ trợ cho quá trình trao đổi chất của cơ thể, nó là phần quan trọng của men chuyển hoá. Thiếu Bl sự chuyển hoá đường bị trở ngại, gây tích luỹ xetoaxit (axit pyruvic), giảm khả năng cung cấp năng lượng.
Vitamin Bi xúc tiến quá trình chuyển hoá năng lượng. Một mặt nó thúc đẩy tổng hợp glycogen trong gan, tích luỹ trong cơ; mặt khác khi cần thiết tiến hành phân giải glycogen tạo thành ATP và giải phóng năng lượng, có lợi cho cơ vận động.
Vitamin Bl tham gia bảo vệ chức năng hệ thần kinh trung ương, thần kinh thu được năng lượng từ glucogen. Thiếu Bl gây khó khăn cho quá trình trao đổi chất, nguồn năng lượng cho hệ thần kinh không đầy đủ đồng thời axit pyruvic bị tích luỹ làm chức năng thần kinh giảm sút. Ngoài ra nó còn gián tiếp gây khó khăn cho sự trao đổi lipit, làm thay đổi trạng thái tế bào, đa đến bệnh của hệ thống thần kinh.

Biểu hiện chủ yếu khi thiếu vitamin B1 là mất ngủ, cảm xúc thất thường, giảm sức mạnh cơ, đau nhức cơ, tiêu hoá không tốt, có cảm giác nặng, phù thũng chi dưới, điếc, ... Triệu chứng điển hình của bệnh thiếu vitamin Bl là chân phù thũng. Tăng cường chức năng dạ dày, tăng nhu động của các tuyến tiêu hoá là do vitamin Bl duy trì hoạt động của các sinap thần kinh, chất trung gian hoá học axetylcolin ít bị phá huỷ.
Vitamin Bl thường được dùng để trị các bệnh về thần kinh, viêm cơ trơn và suy nhược chức năng tiêu hoá.
Vitamin B1 giúp vận động viên nâng cao thành tích thể thao, chống mệt mỏi.

c. Lượng và nguồn cung cấp
Lượng Bl được cung cấp có liên quan với lượng đường đưa vào cơ thể và tỉ lệ thuận với năng lượng tiêu hao. Theo nghiên cứu của các nhà khoa học thể dục thể thao Trung Quốc, cứ 1000KCAL nhiệt lượng cần có 0,5mg vitamin Bl. Người trưởng thành mỗi ngày cần l,2-2,0mg B1 lao động trí óc, lao động trong điều kiện nhiệt độ cao và thiếu oxy thì nhu cầu vitamin B1 tăng cao.

Nguồn cung cấp Bl chủ yếu là thực phẩm. B1 có nhiều trong mầm ngũ cốc, đậu nành, lạc… thịt nạc, gan, thận, tim lợn.
Vitamin B1 tan trong nước nên dễ bị phá huỷ. Cần chú ý phương pháp bảo quản.
Ðưa quá nhiều vitamin B1 vào cơ thể sẽ lãng phí, vì cơ thể không giữ được, mà nó thải ra theo nước tiểu.
Nếu cơ thể phải tiếp nhận quá nhiều Bl trong thời gian dài sẽ gây phản ứng xấu

Vitamin D

a. Tính chất
Vitamin D là chất tương đối ổn định, chịu nhiệt, kháng oxy hoá, không chịu môi trường axit-bazơ, dễ bị axit béo phá huỷ.

Vitamin D có trong một số thức ăn và còn được tổng hợp trong cơ thể từ tiền vitamin D dưới tác động của tia tử ngoại trong bức xạ mặt trời hay tia chiếu nhân tạo với ánh sáng các bước sóng tương tự. Do vậy bệnh thiếu vitamin D thường thấy ở cư dân vùng Bắc cực vào mùa đông.

b. Công dụng dinh dưỡng
Vitamin D có vai trò quan trọng trong điều tiết chuyển hoá photpho và canxi. Vitamin D giúp cho quá trình hấp thụ canxi từ ống tiêu hoá; tham gia tạo muối photpho và canxi trong mô xương, làm tăng độ cứng của xương; canxi hoá men ráng và tuỷ sống; tham gia các phản ứng oxy hoá-khử.

Do vậy ở tuổi nhi đồng nếu thiếu vitamin D sẽ cản trở quá trình phát triển cơ thể và phát dục. Người lởn thiếu vitamin D sẽ bị bệnh loãng xương.

c. Lượng và nguồn cung cấp
Tuổi nhi đồng mỗi ngày cần 10mg, người lớn = 5mg vitamin D. Nừu hàng ngày được tiếp xúc với ánh nắng mặt trời thì lượng vitamin D là đủ nhu cầu. Chỉ đặc biệt những người làm việc ca đêm hoặc trong buồng tối, ít hoạt động vào ban ngày thì cần bổ sung vitamin D.

Vitamin D phân phối trong thiên nhiên không rộng, nhiều nhất là trong cá, lòng đỏ trứng.


Trích “Vệ sinh dinh dưỡng và các loại thuốc đặc hiệu cho vận động viên” NXB THỂ DỤC THỂ THAO năm 1999.

Vitamin A

a. Tính chất
Vitamin A dễ bị oxy hoá dưới ánh sáng mạnh, tia tử ngoại; nhưng khi nấu nướng lại ít bị ảnh hưởng.

Vitamin A thiên nhiên có trong thực phẩm động vật biển. Cà rất có chứa chất tiền vitamin A - carôtin có hoạt tinh của vitamin A, nhưng ở mức độ thấp hơn.

b. Công dụng dinh dưỡng
Vitamin A là thành phần quan trọng cấu tạo và trao đổi chất của tế bào nói chung, có tác dụng thúc đẩy quá trình dinh dưỡng phát dục. Thiếu vitamin A sự phát dục chậm lại.

Vitamin A là chất cảm quan của mắt, là bộ phận quan trọng của tế bào thị giác, có tác dụng tăng thị lực trong điều kiện ánh sáng yếu. Thiếu vitamin A sẽ bị bệnh quáng gà.

Vitamin A có tác dụng bảo vệ tổ chức da, tăng sức đề kháng của cơ thể. Thiếu vitamin A sẽ ảnh hưởng tới hầu hết các tế bào, sự phát dục, năng lực đề kháng và biểu hiện ở mắt, da, đường hô hấp, đường tiết niệu. Người thiếu vitamin A thường bi khô da, rụng tóc; ở nhi đồng phát sinh bệnh của mắt, mắt mờ.

c. Lượng và nguồn cung cấp
Lượng vitamin A cần thiết cho người trưởng thành và nhi đồng là khoảng 0,6mg/ngày. Thị lực càng cần tăng cao, công việc tiến hành trong điều kiện tối thì càng cần nhiều vitamin A.

Vitamin A có nhiều trong gan động vật biển, cá, sữa, dầu Ô lu, lòng đỏ trứng gà , các loại củ có màu vàng, rau xanh, . . .

Nếu vitamin A vào cơ thể quá nhiều sẽ gây độc hại. Cấp tính thì nôn mửa, mê sảng, đau tim; mãn tính biểu hiện ăn không ngon miệng, rụng tóc, nhức đầu, ù tai, mắt mờ, ...



Trích “Vệ sinh dinh dưỡng và các loại thuốc đặc hiệu cho vận động viên” NXB THỂ DỤC THỂ THAO năm 1999.

VITAMIN

Vitamin là những chất cần thiết cho quá trình phát triển, hoạt động sống và sinh sản của cơ thể.

Vitamin có nhiều loại, tính chất hoá học không giống nhau, chức năng sinh lý cũng khác nhau. Vitamin không tham gia cấu tạo tổ chức cơ thể và không là nguồn cung cấp năng lượng cho cơ thể, song chúng có vai trò đặc biệt 'trong các quá trình sinh hoá học xảy ra trong cơ thể.

Vitamin được chia làm hai nhóm chính - loại tan trong nước và loại tan trong mỡ.

Vitamin tan trong nước gồm vitamin B1, B2, PP, B6, B12, B5, C,...

vitamin tan trong mỡ gồm vitamin A, D, E, K,...

Cơ thể không tổng hợp được vitamin, do vậy cần thiết phải lấy từ thức ăn. Hàm lượng các vitamin trong các loại thực phẩm rất khác nhau, tính chất của chúng không ổn định, dễ bị phá huỷ khi đun nấu. Do vậy phải lựa chọn loại thực phẩm hợp lý và nấu ở nhiệt độ chuẩn xác để cơ thể có thể hấp thu được lượng vitamin cần thiết. Nếu lượng vitamin ăn vào không đầy đủ sẽ gây rối loạn quá trình trao đổi chất và cơ thể có thể xuất hiện những bệnh do thiếu hụt một loại vitamin nào đó.

Vitamin còn là loại thuốc để phòng và trị bệnh.

Ðối với vận động viên, vitamin không những có tác dụng bảo vệ sức khoẻ mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến thành tích thể thao. Thành tích sẽ giảm nếu cơ thể không được cung cấp đầy đủ lượng và loại vitamin. Nhưng nếu cơ thể vận động viên đã có đầy đủ vỉtamin cần thiết mà lại cung cấp thêm nữa thì có ảnh hưởng gì không, vấn đề này hiện nay còn chưa rõ ràng.

Sau đây là các loại vitamin có liên quan đến khả năng vận động của vận động viên.



Trích “Vệ sinh dinh dưỡng và các loại thuốc đặc hiệu cho vận động viên” NXB THỂ DỤC THỂ THAO năm 1999.

Một số Vitamin không phải là Vitamin

Đa số chúng ta đều biết đến các vitamin như B1, B2, B3 (PP), B5, B6, B8, B9, B12. Nhưng tại sao lại không hề nghe nói đến vitamin B4, B10, B11, B13, B15, B17…?


Bởi vì ngày nay, người ta đã xác định một số chất không hoạt động hoặc không có tác dụng theo đúng định nghĩa của vitamin: đó là những vitamin nhưng lại không phải là vitamin.

Năm 1910, nhà bác học người Mỹ gốc Ba Lan Casimir Funk đã có một khám phá mang tính lịch sử là phân lập được một chất bí ẩn từ gạo ăn, nếu thiếu nó, cơ thể sẽ mắc một căn bệnh đáng sợ và có thể gây nguy hiểm đến tính mạng: Đó là bệnh Béribéri - bệnh phù thũng. Ông đặt tên cho chất bí ẩn này là vitamin, một chất hóa học thuộc nhóm amin, rất cần cho sự sống. Để ghi nhớ sự kiện này, người ta đặt tên chất này là vitamin B1. Từ đó, tất cả các chất tương tự đều mang họ B1, như B2, B3...



Vitamin là những hợp chất hữu cơ mà cơ thể không tự tổng hợp được, phần lớn phải bổ sung bằng đường ăn uống. Với liều lượng rất nhỏ, nhưng vitamin đóng vai trò quan trọng đối với sự sống của con người: đó là những chất xúc tác không thể thiếu cho sự chuyển hóa các chất trong cơ thể. Nhu cầu hàng ngày về vitamin cho cơ thể con người rất ít, nhưng nếu thiếu sẽ gây những rối loạn trầm trọng và là nguyên nhân của nhiều căn bệnh nguy hiểm, nếu kéo dài có thể dẫn đến tử vong.

Thời gian đã qua đi và hiện nay, một số vitamin không phải là vitamin nữa, đó là:



Vitamin B4: Người ta gọi vitamin B4 là “vitamin của bạch cầu” vì nó kích thích quá trình tạo bạch cầu. Trong thực nghiệm, nếu thiếu vitamin B4 sẽ gây hội chứng viêm đa dây thần kinh. Thực ra, đó là chất adenine, một chất tạo nên nhân của tế bào.

Vitamin B10: Có tác dụng bảo vệ cơ thể tránh những tác hại của ánh sáng mặt trời và các gốc tự do - là những chất độc hại cho cơ thể. Người ta tìm thấy vitamin B10 trong cùng một nguồn của tất cả các vitamin nhóm B như trong men bia, ngũ cốc toàn phần, mầm lúa mì, rau... Thực ra, đó là chất PABA, có cấu trúc hóa học rất giống với sulfamid - một acid amin tự nhiên trong não.



Vitamin B11: Được gọi là “vitamin của sự ngon miệng”, có tác dụng kích thích sự bài tiết của dạ dày và tụy tạng, giúp tiêu hóa tốt. Trên thực nghiệm, thiếu vitamin B11 sẽ dẫn đến chán ăn, kém tiêu hóa và teo cơ. Người ta tìm thấy vitamin B11 trong thịt và men bia. Thực ra, đó là một loại men tiêu hóa, cơ chế hoạt động không hề giống vitamin.

Vitamin B13: Có nhiều trong sữa, khi vào cơ thể sẽ được chuyển hóa thành chất đạm cơ bản để cấu tạo nên gien. Vitamin B13 còn được sử dụng để tổng hợp các loại muối khoáng khác nhau. Ở Pháp, vitamin B13 được xếp vào bảng thuốc độc. Thực ra, đó là acid orotic - một yếu tố tăng trưởng.



Vitamin B15: Có khả năng làm tăng độ dẻo dai ở vận động viên, cải thiện một số bệnh lý về hô hấp, khớp, thần kinh... Thực ra, đó là acid pangamic. Acid pangamic còn là tên dùng chung cho nhiều chất mang tính kích thích (doping) mà ngày nay người ta không cho phép sử dụng nữa.



Vitamin B17: Người ta tìm thấy vitamin B17 trong nhân quả đào, mơ, sê-ri. Ở Mêhicô, người dân thường ăn nhiều quả mơ và ít bị ung thư đường tiêu hóa nên người ta cho rằng vitamin B17 có tác dụng chống ung thư. Nhưng những thực nghiệm sau này không cho thấy tác dụng nào của vitamin B17. Vitamin B17 chính là leatrile, trong hàm lượng của nó có chứa thủy ngân nên các nước như Mỹ, Pháp đã cấm sử dụng.



Vitamin F: Người ta tìm thấy vitamin F trong dầu hướng dương, dầu ngô, dầu hạt nho, dầu đậu nành, dầu hồ đào. Thực nghiệm trên chuột cho thấy thiếu vitamin F, chuột chậm phát triển, đỏ da, tổn thương thận, vô sinh, và những bệnh này được chữa khỏi bằng vitamin F. Thực ra, đó là hai acid béo không no: acid linoléic và acid alpha linoléic.

Vitamin I: Vitamin I có nhiều trong quả hạnh đào, đậu xanh. Trước kia, vitamin I được kê đơn chữa các bệnh về gan, xơ vữa động mạch, viêm da. Ngày nay, người ta không tìm thấy bằng chứng xác thực về hiệu quả của vitamin I. Thực ra, vitamin I là inositol, có tác dụng tạo chất phospholipid, là thành phần cơ bản của màng tế bào và tế bào thần kinh.



Vitamin J: Có vai trò quan trọng trong quá trình chuyển hóa mỡ, do đó có tác dụng chống lại bệnh xơ vữa động mạch. Người ta còn sử dụng vitamin J để cải thiện chất lượng của trí nhớ vì nó tham gia vào quá trình thông tin thần kinh. Nó còn là tiền chất của chất dẫn truyền trung gian thần kinh quan trọng nhất của cơ thể: chất acetylcholin. Vitamin J thực ra là chất cholin, được tổng hợp ngay trong cơ thể con người từ amine methionin. Ngoài ra, cholin có trong nhiều thực phẩm chứa mỡ như lòng đỏ trứng, gan, đậu nành, mầm lúa mì...



Vitamin P: Người ta đặt tên vitamin P cho một nhóm sắc tố tan trong nước, thường đi kèm với vitamin C, có trong một số loại rau quả. Chất được biết đến nhiều nhất là rutin, chất này có khả năng đồng hóa vitamin C, tham gia vào chức năng bảo vệ sự vững bền của thành mạch máu. Thực ra, vitamin P là flavonoid, một tố chất giữ vai trò quan trọng trong việc chống lại các gốc tự do độc hại trong cơ thể con người. Flavonoid có nhiều trong trà xanh, rượu vang đỏ, một số loại rau quả, có nhiều ích lợi cho sức khỏe, nhất là tác dụng chống lão hóa, giải độc cho cơ thể.

BS. Bùi Nguyên Kiểm (suckhoedoisong.saigonnet.vn)

VITAMIN E HAY TOCOPHEROL

Vitamin E là gì


Tất cả tocopherol ở nhiệt độ đều có cùng một hình thái : đó là những dịch dầu, nhớt, màu vàng.

Chúng không tan trong nước nhưng rất tan trong mỡ và trong các dung môi của mỡ (ether, aceton, chloroform, methanol, alcool).

Ở dạng tự do, đó là những chất chống ôxy hóa : chúng bị phá hủy bởi ôxy và các ôxy hóa. Thiếu ôxy, chúng ổn định ở nhiệt độ (khi thức ăn được nấu, vitamin E mất khoảng 20%) và môi trường acid, nhưng chúng nhạy cảm với ánh sáng. Do đó cần giữ chúng trong các lọ đậy nắp kín và mờ.

Khả năng hấp thu của nó có được ở phần giữa của ruột non. Liên hệ mật thiết với quá trình tiêu hóa mỡ và cần thiết phải có muối mật cùng men lipase của tụy. Được hấp thu cùng lúc với các chất béo, đến hệ tuần hoàn bằng đường bạch huyết.

Trong huyết tương, hàm lượng alphatocopherol tổng quan với hàm lượng lipid toàn phần, nó được đi kèm với lipoprotein LDL, HDL, thật lý thú để nhận thấy rằng, có tocopherol được liên kết lipoprotien HDl, ở người nam, phần lớn được liên kết với LDL.

Mô bắt giữ tocopherol từ lipoprotein của máu. Tổ chức chứa từ 3,4 đến 8g, với người trưởng thành tỉ lệ này thay đổi tùy theo mô.

Dạng tổng hợp, tức là vitamin E được sản xuất bởi bào chế chứa các đồng phân của 8-steroid.

Dạng tự nhiên là một trong những stereoisom này, RRRd-alpha-tocopherol

Nguồn gốc


Thực phẩm                                                 mg/100g

Dầu của mầm lúa mì                                   13330

Margarine                                                     280

Dầu cọ                                                           256

Dầu bắp                                                        112

Dầu đậu nành                                              101

Bơ                                                              15 đến 20

Ngũ cốc, bánh mì                                     10 đến 50

Thịt đỏ                                                       5 đến 16

Cá                                                              6 đến 10

Liều lượng khuyên dùng hàng ngày( Loại Đơn vị (U.I))

Trẻ còn bú                                                 4

Trẻ từ 1 đến 3 tuổi                                    7

Trẻ từ 4 đến 9 tuổi                                   10

Trẻ 10 đến 12 tháng                                 15

Thanh niên, trưởng thành                      18

Phụ nữ có thai, cho con bú                    18

Đơn vị quốc tế cũ (U.I), tương ứng với một 1mg của dạng vitamin E tổng hợp.

Đó là những tác dụng âm tính khi thiếu vitamin E lên khả năng sinh sản và thụ thai, nhưng tầm quan trọng là vai trò của nó vượt quá giới hạn này rất nhiều.


Chống ôxy hóa :

Nó có khả năng chống ôxy hóa và tác động bằng cách ngăn ngừa hay gián đoạn các phản ứng chuỗi, mà chính phản ứng tạo ra các gốc tự do.

Lợi ích của Vitamin E

Kiểm soát tiểu cầu của máu :


Vitamin E không chỉ là một chất chống ôxy hóa mà còn tác động bởi nhiều cơ chế khác nữa,

chưa được chứng minh. Nó kiểm soát tính hoạt động của tiểu cầu gây nguy hiểm đối với hệ tim-mạch, và làm giảm sự tăng sinh của các tế bào cơ trơn, đồng thời tấn công vào thành động mạch trong chống xơ vữa động mạch, cũng như sự tăng sinh đối với một vài tế bào ung thư

Vitamin E, giống tất cả các vitamin tan trong mỡ, đi qua nhau thai kém. Vì vậy, em bé mới sinh ra có lượng vitamin E rất thấp, điều này tạo điều kiện thuận lợi cho vỡ hồng cầu và vàng da sau khi sinh, đặc biệt khi hồng cầu đột ngột bị tiếp xúc với ôxy được mang đến từ phổi. Ở trẻ em đẻ non, tình trạng này càng trầm trọng hơn, nó sẽ gây ra thiếu máu huyết tán, phá hủy hồng cầu, từ 4 đến 6 tuần ở đứa trẻ nhẹ cân lúc sinh ( nhỏ hơn 1,5 kg) nếu không được cung cấp thêm. Ngoài ra, bổ sung vitamin E làm giảm xuống 4 lần nguy cơ chảy máu não ở trẻ đẻ non.

Biểu hiện của thiếu Vitamin E
Một vài đứa bé được sinh với bệnh di truyền hay bất thường bẩm sinh sẽ giảm khả năng hấp thu tất cả các vitamin trong dầu, do đó cần phải đưa vào mỗi ngày một lượng lớn các vitamin này.

Biểu hiện của thiếu vitamin E được thể hiện đầu tiên ở neuron, thần kinh của não và dây thần kinh ngoại biên. Sau đó là mô mỡ. Ở trẻ có hệ thần kinh đang phát triển, và người già sẽ rất dễ bị tổn thương khi thiếu vitamin E. Thiếu vitamin E ở người lớn âm ỉ hàng chục năm mới xuất hiện dấu hiệu thần kinh sau đây :

Tổn thương hệ thần kinh ngoại biên cùng với giảm phản xạ và cảm giác sâu.


Bệnh cơ và yếu cơ.

Rối loạn quá trình phối hợp các động tác hay thất điều.

Tổn thương võng mạc, có thể tiến triển đến viêm võng mạc.

Ở người già, người ta nghi ngờ rằng thiếu vitamin E tạo thuận lợi cho thoái hóa não (bệnh Parkinson, Alzheimer).

Phần lớn người trưởng thành, thiếu vitamin E có thể vẫn âm ỉ trong hàng chục năm, khi đó nó không đủ lượng trong cơ quan để bảo đảm cho đặc tính bảo vệ hiệu quả của màng tế bào và mỡ trong tuần hoàn. Kết quả là xuất hiện đột ngột bệnh tim mạch và một vài bệnh ung thư.

Ngoài ra, vitamin E còn cần thiết để kiểm soát hiện tượng viêm, và dị ứng, cũng như cần cho hoạt

động của sức đề kháng miễn dịch. Sự suy yếu này sẽ cạnh tranh với - sự gia tăng tần số

bị nhiễm trùng khiến cho hiện tượng viêm và dị ứng nặng thêm



Tác dụng phụ khi dùng Vitamin E quá liều Dùng với liều cao vitamin D có thể gây ra các phản ứng trầm trọng : chán ăn, buồn nôn, mất cân, đi tiểu tăng lên, mất nước, tăng huyết áp. Những tác dụng này chỉ xuất hiện với liều rất cao (25 đến 27 mg/ngày cho 1kg trọng lượng) và dùng trong nhiều tuần.

Nếu ngộ độc xảy ra, sẽ có sự calci hóa mô : Muốn calci được lắng đọng ở thận, mạch máu, tim, phổi.

Tác dụng phụ khi dùng Vitamin E quá liều

Dùng với liều cao vitamin D có thể gây ra các phản ứng trầm trọng : chán ăn, buồn nôn, mất cân, đi tiểu tăng lên, mất nước, tăng huyết áp. Những tác dụng này chỉ xuất hiện với liều rất cao (25 đến 27 mg/ngày cho 1kg trọng lượng) và dùng trong nhiều tuần.


Nếu ngộ độc xảy ra, sẽ có sự calci hóa mô : Muốn calci được lắng đọng ở thận, mạch máu, tim, phổi.

Dùng liều cao lúc có thai có thể gây sống thai hay tăng calci máu ở trẻ bú mẹ (chậm phát triển về tâm thần vận động, bất thường về tim mạch). Nguy cơ này đã khiến các nhà nhi khoa và dinh dưỡng giảm liều được khuyên trong những năm 50.

Cuối cùng, vitamin D và những dẫn xuất của chúng hoàn toàn chống chỉ định cho các trường hợp calci máu, calci niệu hay sỏi calci

Vitamin D


Nguồn thực phẩm

Có hai dạng vitamin D chính – Vitamin D2 (ergocalciferol) và vitamin D3 (cholecalciferol). Vitamin D2 thường được bổ sung nhiều nhất trong sữa và các thực phẩm khác. Vitamin D2 còn được sử dụng nhiều trong các chế phẩm bổ sung. Trong thiên nhiên vitamin D có nhiều trong dầu gan cá, cá nước lạnh (cá thu, cá hồi, cá trích … ), bơ và lòng đỏ trứng. Thực vật có ít vitamin D, nguồn cung cấp tốt nhất là các loại rau xanh lá sậm màu.


Các dấu hiệu thiếu hụt và triệu chứng

Thiếu hụt vitamin D dẫn đến bệnh còi xương ở trẻ em và bệnh nhuyễn xương ở người lớn. Đặc trưng của bệnh còi xương là không có khả năng cốt hóa xương, kết quả là xương sọ mềm, chân vòng kiềng, vẹo cột sống và phì đại khớp. Cho tới nay các bệnh này rất hiếm gặp.


Hiện nay, sự thiếu hụt vitamin D thường hay gặp ở người lớn tuổi ít ra nắng, đặc biệt những người nằm viện an dưỡng. Kết quả là xương không cứng, không khỏe và đau khớp.


Liều vitamin D khuyến cáo hằng ngày


Trẻ dưới 6 tháng 300


Trẻ từ 6 tháng đến 10 tuổi 400


Trẻ em và người lớn


Nam 11-24 tuổi 400


Nam trên 25 tuổi 200


Phụ nữ 11-24 tuổi 400


Phụ nữ trên 24 tuổi 200


Phụ nữ có thai 400


Phụ nữ cho con bú 400




Lợi ích

Vitamin D được biết đến bởi khả năng kích thích việc hấp thụ calci. Tuy nhiên, thực tế có nhiều dạng vitamin D, mỗi dạng có ảnh hưởng khác nhau trong hoạt động chuyển hóa calci.Dưới da, ánh sáng mặt trời chuyển tiền vitamin D (7-dehydrocholesterol) thành vitamin D3 (cholecalciferol). Sau đó vitamin D3 được vận chuyển đến gan và được chuyển đổi bởi enzyme thành 25-hydroxycholecalciferol [25-OHD3 ], chất này có hoạt tính gấp 5 lần cholecalciferol. Một enzyme trong thận tiếp tục chuyển đổi 25-hydrocholecalciferol thành 1,25-dihydroxycholecalciferol [1,25-(OH)2D3], chất này có hoạt tính gấp 10 lần cholecalciferol và là dạng có hoạt tính nhất của vitamin D3.


Rối loạn chức năng gan hay thận dẫn đến suy giảm trong việc chuyển đổi cholecalciferol thành những phức hợp vitamin D có hoạt tính cao hơn. Bệnh nhân bị loãng xương có nồng độ 25-OHD3 cao trong khi nồng độ (1,25-(OH)2D3 khá thấp. Điều này cho thấy có sự suy giảm đáng kể việc chuyển đổi 25-OHD3 thành (1,25-(OH)2D3 trong bệnh loãng xương. Các nhà nghiên cứu đã đề nghị nhiều thuyết để giải thích cho việc suy giảm chuyển đổi này, trong đó có mối quan hệ với sự thiếu hụt estrogen và magnesium. Mới đây các nhà khoa học đã đặt ra giả thuyết rằng khoáng chất Bor (Boron) có tham gia trong việc chuyển đổi này.


Vitamin D còn có vai trò trong việc phòng ngừa ung thư, dặc biệt ung thư vú và ung thư đại tràng. Tần suất của ung thư vú và ung thư đại tràng ở các vùng mà người dân ít tiếp xúc với ánh nắng mặt trời cao hơn các vùng khác.


Các dạng hiện có 

Vitamin D có đầy đủ các dạng đã mô tả ở trên. Vitamin D2 là dạng chế phẩm bổ sung thường hay gặp nhất. Calcitriol là dạng vitamin D kê toa 1,25-(OH)2D3 có công dụng mạnh gấp 10 lần vitamin D2 hay D3. Bác sĩ ưu tiên kê toa Calcitriol cho bệnh nhân có bệnh thận bởi vì những bệnh nhân này không thể chuyển đổi vitamin D thành các dạng có hoạt tính như vậy được.



Dạng có sẵn Hiệu quả so sánh


Vitamin D3 1


Vitamin D2 1


25-OH-D3 2-5


25-OHD2 2-5


1,25-(OH)2D3 10


1,25-(OH)2D2 10

Tương quan hoạt tính giữa các dạng vitamin D


Nguyên tắc sử dụng:
Nguyên tắc sử dụng là ngăn ngừa sự thiếu hụt vitamin D.


Liều dùng
Theo RDA (Recommended Dietary Allowance), nên sử dụng 200-400 UI vitamin D mỗi ngày. Đối với người lớn tuổi không tiếp xúc với ánh sáng mặt trời hoặc sống các vùng phía Bắc, được khuyên nên dùng 400-800 UI mỗi ngày. Đa số người trưởng thành, trẻ em, người mới ốm dậy nên dùng 400 UI mỗi ngày.


Vấn đề an toàn
Vitamin D có khả năng gây độc cao nhất trong tất cả các loại vitamin. Liều dùng cao hơn 1000 IU một ngày chắc chắn không được khuyên dùng. Một số biểu hiện ngộ độc vitamin D như gia tăng nồng độ calci trong máu (tình trạng nặng), sự lắng đọng calci trong các cơ quan nội tạng, và sỏi thận.


Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng việc dùng vitamin D quá nhiều sẽ góp phần trong bệnh xơ vữa động mạch và bệnh tim mạch, có lẽ là do việc giảm hấp thu magnesium.


Tương tác thuốc

Vitamin D liên quan phức tạp đến việc chuyển hóa calci. Các thuốc như cholestyramine, Dilantin, phenoberbital đều liên quan đến việc hấp thu và/hoặc chuyển hóa vitamin D.

Vitamin A(Retinol)

Vitamin A(Retinol)


Gồm có 2 loại:

A_1 : Retinol.(dạng oxy hóa) Công thức hóa học C_20 H_30O

A_2 : Dehydro Retinol.(dạng khử) Công thức hóa học C_20 H_27OH

Retinol và retinal cần thiết cho quá trình nhìn,sinh sản,phát triển,sự phân bào,sự sao chép gen và chức năng miễn dịch,trong khi retinoic acid cần thiết cho quá trình phát triển,phân bào và chức năng miễn dịch.

1.Chức năng

Nhìn: chức năng đặt trưng nhất của vtamin A là vai trò với võng mạc của mắt mamặc dù mắt chỉ giữ một lượng vitamin A bằng 0,01% trong lượng vitamin A của cơ thể,tham gi vào chức năng tế bào hình que trong việc đáp ứng với ánh sáng khác nhau,tham gia vào chức năng của tế bào hình nón với chức năng phân biệt màu sắc.Vitamin A_1 tham gia cấu tạo chất Rhodopsin của võng mạc.Đó là một protein tạp có tác dụng cảm quang nghĩa là làm tăng độ nhạy cảm của mắt với ánh sáng. Khi thiếu vitamin A tốc độ tái tạo rhdopsin chậm lại. Thời gian mắt thích ứng bình thường là 8 phút. Khi thiếu vitamin A, mắt thích ứng chậm lại khoảng 30-40 phút, sinh ra bệnh quán gà.Niêm mạc của mắt sau khi thiếu vitamin A kéo dài,nhãn cầu bị chai cứng sinh ra bệnh khô mắt,có thể dẫn tới mù lòa.Bệnh này thường gặp ở trẻ em còi xương,suy dinh dưỡng

Chức năng phát triển: khi đông vật bị thiế vitamin A,qua tringf phát triển bị ngừng lại.Những dấu hiệu sớm của thiếu vitamin A là mất ngon miệng,giảm trọng lượng,Thieus vitamin A lam xương mềm và mảnh hơn bình thường,wuas trình vôi hóa bị rối loạn.Chức năng phát triển của vitamin A là do acid retinoic đảm nhận.

Biệt hóa tế bào và miễn dịch: phát triển và biệt hóa tế bào xương là một ví dụ điển hình về vai trò của vitamin A.Nhiều bất thường về thay đổi cấu trúc và biệt hóa tế bào,mô do thiếu vitamin A được biết đến từ lâu: sừng hóa các tế bào biểu mô, các tế bào bị khô đét và bị khô cứng lại. Những mô nhạy cảm nhất với vitamin A là da, đường hô hấp,tuyến nước bọt,mắt và tinh hoàn. Sừng hóa biểu mô giác mạc có thể gây loét và dẫn đến khô mắt.

Acid retinoic tham gia vào quá trình biệt hóa tế bào phôi thai, từ những tees bào mầm thành những mô khác nhau của cơ thể như cơ ,da và các tế bào thần kinh. Quá trình này thong qua những biến đổi của gen. Hiện nay, khoa học đã phát hiện trên 1000 gen có tương tác với vitamin A , trong đó bao gồm hormone tăng trưởng,osteopontin, hormone điều hòa phát triển, trao đổi của xương.

Vitamin A cần cho chức năng của tế bào võng mạc, biểu mô- hang rào quan trọng bảo vẹ cơ thể khỏi sụ xâm nhập của vi khuẩn từ bên ngoài. Hai hệ thống miễn dịch thể dịch và tế bào đều bị ảnh hưởng của vitamin A và các chất chuyển hóa của chúng.

Sinh sản: Retinol và retinal đều cần cho chức năng sinh sản bình thường của chuột. Khi thiếu hụt retinol hoặc retinal chuột đực khong sinh sản tế bào tinh trùng, bào thai phát triển không bình thường.

2. hấp thu, chuyển hóa

Retinol và retinyl ester có trong các lạo thực phẩm có nguồn gốc động vật. Beta-caroten có trong các loại rau quả màu xanh đậm,màu vàng. Theo cổ điển, khi vào cơ thể Beta carotene chuyển thành vitamin A với tỷ lệ 6 beta carotene = 1 RE (hiện nay, khuyến nghi mới 1 vitamin A RE = 12 beta carotene = 24 carotenoid khác). Hấp thu beta caroten còn bị ảnh hưởng bởi một số thành phần khác trong thức ăn như protein, chất béo trong khẩu phần, và phụ thuộc laoij thực phẩm khác nhau.

Vì vitamin A hòa tan chất béo nên quá trịnh hấp thu được tăng lên khi có những yếu tố làm tăng chất béo và ngược lại. Ví dụ, muối mật làm tăng hấp thụ chất béo, do vậy những yếu tố làm tăng bài tiết mật hoặc giảm bài tiết mật đều ảnh hưởng đến hấp thu vitamin A trong khẩu phần.

Caroten sau khi được phân tách khỏi thức ăn thực vật trong quá trình tiêu hóa, chúng được hấp thu nuyên dạng với sự có mặt của acid mật. Tại thành ruột chúng được phân cắt thành retinol, rồi được ester hóa giống các retinol. Một số caroten vẫn được giữ nguyên dạng cho đến khi vào hệ tuần hoàn chung.Mức beta-caroten trong máu phản ánh tình hình caroten của chế độ ăn hơn là tình trạng vitamin A của cơ thể.

Vì beta-caroten có thể được chuyển trực tiếp thành retinol và retinal, nên nó

còn là tiền chất của acid retinoic. Các carotenoids còn có vai trò như chất chống oxy

hoá, bảo vệ cơ thể khỏi những tác nhân oxy hoá.

3 chế độ ăn khuyến nghị

Trong 3 tháng cuối của thời kỳ thai nghén, khoảng 1.4 mg retinol được chuyển cho thai nhi.Điều nàu cho thấy không cần phải bố sung them nếu người mẹ có dự trữ vitamin A bình thường. Nếu phụ nữ có thai với dự trữ vitamin A thấp,cần phải bố sung một lượng 200 RE vitamin A/ngày; có thể có nguy hiểm nếu bổ sung với liều > 20.000 RE/ngày ,gây dị dạng thai ngén. Vì vậy với phụ nữ có thai không nên dùng quá liều vitamin A.

Sữa mẹ có chứa khoảng 400-700 RE/L vitamin A và 200-400 microgam/l carotenoid. Lượng này có thể bằng 50% lượng dự trữ vitamin A của người mẹ trong vòng 6 tháng cho bú đầu tiên. Để đảm bảo cho dự trữ của người mẹ, cần phải bổ sung them một lượng 500RE/ngày vitamin A trong thời gian cho con bú, tức là khoảng 350-500 RE/ngày cho trẻ nhỏ. Với trẻ lớn hơn,có thể dùng số lượng tương đương người trưởng thành.

4. Nguồn thực phẩm


Vitamin A trong thực phẩm gồm retinol, thường thấy trong thức ăn nguồn động vật,ngòai ra chúng được tạo thành từ các sản phẩm carotenoid nguồn thực vật.

Gan là cơ quan dự trữ vitamin A của cơ thể, chính vì vậy gan là nguồn thức ăn giàu vitamin A

; gan lợn chứa khoảng 12000 RE/100g,gan gấu có tới 600.000RE/100g;dầu gan cá được sử dụng rộng rãi như nguồn vitamin A và D ;lòng đỏ trứng có khoảng 310 IU (94RE)/lòng đỏ; vitamin A trong bơ khoảng 1900IU/kg hoặc 570RE/kg; magarine tăng cường vitamin A (dạng palmitate) chứa khoảng 33.000 IU/kg hoặc 10.000 RE/kg. Trong các loại rau quả,chứa các tiền vitamin A, dặc biệt là các loại có màu xanh và màu vàng.

Nhu cầu năng lượng của vận động viên

Năng lượng cho hoạt động thể lực thường chiếm 25-35% tiên hao năng lượng hàng ngày, có thể tăng lên 75% khi tập với cường độ cao và kéo dài.


Nhu cầu năng lượng đối với vận động viên đao động từ 1500kcal đối với các nữ vận động viên thể dục dụng cụ đến 6.000-7.000KCal đối với các vận động viên đua xe đường trường.


Một số loại hình thể thao có yêu cầu cao về vóc dáng như thể dục đụng cụ nữ, vận động viên thể hình, trượt băng nghệ thuật... hoặc các môn thề thao xếp loại cân nặng khi thi đấu như judo, vật, quyền Anh - vận động viên các môn đó nhiều khi tiết chế để giảm cân hoặc để tạo một cấu trúc thể hình nào đó. Họ phải thường xuyên tiết chế cho mỗi lần thi đấu, rồi lại tăng trọng lại sau đó (weight cycling) sẽ càng ngày càng thấy khó giảm cân sau này, trong khi tăng cân ngày càng dễ dàng hơn.


Các nữ vận động viên theo các chương trình tập quyền căng thẳng trong lúc tiết chế, ăn ít năng lượng có thể bị rối loạn kinh nguyệt, kể cả mất kinh, giảm mật độ xương, gây loãng xương và thiếu máu do thiếu sắt (Westerterp và Sanh, 1991). Khẩu phần ăn có năng lượng thấp thường không cung cấp đủ các yếu tố vi lượng như vitamin và khoáng chất. Các vận động viên nữ nổi tiếng của các môn thể thao đòi hỏi cao về hình thể thường dễ bị rối loạn hành vi ăn uống, như chán ăn kéo dài chẳng hạn.


Một số vận động viên thực hiện giảm cân nhanh ngay trước cuộc thi để đư¬ợc xếp hạng cân thấp hơn (make weight) còn bằng các biện pháp như tập luyện quá sức, nhịn ăn, gây nôn, hạn chế uống nước, dùng các thuốc nhuận tràng, lợi tiểu . . . Ðiều này làm suy kiệt dự trữ của cơ thể và gây bất lợi nhiều hơn lợi thế được xếp xuống hạng cân. Cần có kế hoạch giảm cân từ từ, lâu dài một cách khoa học để vẫn duy trì 
được tập luyện  và giữ vững thành tích.

Ðối với các vận động viên có nhu cầu năng lượng cao cần chú ý để lượng tinh bột tăng tương ứng, tránh tăng lượng chất béo trong khẩu phần. Thời gian tập luyện và thi đấu thường căng thẳng nên rất khó cho vận động viên có nhu cầu cao chỉ sử dụng chủ yếu các loại tinh bột 
như­  khuyến cáo thông thường, mà cần phải bổ sung năng lượng dưới dạng các loại nước chứa đường đơn giản. Các loại nước này có thể chiếm tới 50% tổng năng lượng được cung cấp.

Sách “vệ sinh dinh dưỡng và các thuốc đặc hiệu cho vận động viên” NXB THỂ DỤC THỂ THAO

Thứ Ba, 29 tháng 3, 2011

Coban (Co)

Vai trò chính của coban là tham gia vào quá trình tạo máu và chuyển hoá vật chất. Coban kích thích quá trình tạo máu, tuy nhiên liều lượng cao có tác dụng ngược lại. Trong điều trị thiếu máu, coban có tác dụng khi cho đồng thời với sắt. Người ta còn thấy hoạt động tạo máu của coban khi thể hiện mức đồng (Cu) đủ cao trong cơ thể. Coban khi có mặt của đồng sẽ tác dụng lên sự tạo thành hồng cầu lưới và chuyển chúng thành hồng cầu trưởng thành.
        Coban có khả năng làm chậm phát triển tế bào ung thư, ảnh hưởng rõ rệt đến hoạt động một số men thủy phân. Coban là nguyên liệu gốc để nội tổng hợp vitamin B12 trong cơ thể. Theo quan điểm hiện nay nhu cầu cơ thể chủ yếu được thỏa mãn nhờ lượng vitamin B12 do các vi khuẩn đường ruột tổng hợp từ coban của thức ăn. Coban có nhiều nhất ở tuyến tụy và tham gia vào quá trình tạo thành insulin.
       Coban phổ biến trong thực phẩm với lượng rất thấp (trong thực vật ở biển, cá và động vật khác..). Tuy nhiên ở chế độ ăn hỗn hợp cũng đủ để thỏa mãn nhu cầu cơ thể.

Theo: Giáo trình Dinh Dưỡng Người
Ths. Nguyễn Minh Thủy